Chánh
kinh:
Thí
như hữu nhân, nhất chuyên vi ức, nhất nhân chuyên
vong, như thị nhị nhân, nhược phùng bất
phùng, hoặc kiến phi kiến. Nhị nhân tương ức,
nhị ức niệm thâm, như thị năi chí tùng sanh chí
sanh, đồng ư h́nh ảnh.
(Ví
như có người, một người chuyên nhớ, một
người chuyên quên, hai người như thế dù gặp
cũng như không gặp, dù có thấy cũng như không
thấy. Hai người nhớ nhau, hai người nhớ
nghĩ nhau sâu xa, như thế cho đến từ đời
này sang đời khác, giống như h́nh với bóng)
Ví dụ
thứ nhất là Phật nghĩ đến chúng sanh,
nhưng chúng sanh trọn chẳng nghĩ đến Phật.
Nếu cả hai nhớ nghĩ lẫn nhau bèn cảm ứng
đạo giao. Cha mẹ nghĩ đến con cái th́ chỉ
một đời, đời sau chẳng c̣n gặp gỡ,
dẫu có gặp nhau cũng chẳng nhận biết. Đối
với chúng sanh, Phật nghĩ nhớ đời đời
kiếp kiếp chẳng đoạn, tâm Ngài đối với
chúng sanh chỉ có người chứng quả mới nhận
hiểu nổi. Phật nói hết thảy pháp từ tâm
tưởng sanh, câu nói ấy là chân lư và cũng là sự thật.
Hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian đều
do tâm tưởng sanh, chúng sanh là chúng sanh trong tâm Phật;
chư Phật là Phật trong tâm chúng sanh, tâm tâm tương
đồng. Nếu chẳng phải là tự tánh biến
hiện, sẽ chẳng thể có cảm ứng. Lúc khởi
tâm niệm Phật, tâm ấy biến thành cái tâm có đức
Phật ba mươi hai tướng, tâm là chủ tể.
Niệm Phật lâu ngày, tâm thành từ bi, tướng mạo
cũng nhu ḥa, thể hiện ra tướng, ta thường
nói “tướng tùy tâm chuyển”.
Trong
sách chú giải Quán Kinh, Thiện Đạo đại
sư viết: “Chín phẩm văng sanh đều là do gặp
duyên sai khác”. Vừa nghe đến pháp môn Niệm Phật,
bèn tin tưởng ngay lập tức, tiếp nhận, chết
một ḷng niệm Phật, ấy chính là người thiện
căn chín muồi, người ấy một đời niệm
Phật nhất định đắc lực. C̣n như
người thiện căn chưa chín muồi, gặp
duyên là điều rất quan trọng. Lâm chung, gặp bạn
lành, nhất tâm bất loạn, niệm Phật văng sanh, có
thể lay động túc căn trong quá khứ, chuyên tâm niệm
Phật mau được thành tựu.
Chánh
kinh:
Thập
phương Như Lai, mẫn niệm chúng sanh, như mẫu
ức tử, nhược tử đào thệ, tuy ức
hà vi?
(Mười
phương Như Lai nghĩ thương chúng sanh như mẹ
nhớ con. Nếu con trốn đi, dù nhớ làm ǵ
được?)
Mẹ
con tỷ dụ thân thiết nhất, mẹ nào chẳng
nghĩ đến con! Từ xưa đến nay, ḷng mẹ
u mê, dẫu biết con chẳng nghĩ đến ḿnh, vẫn
cứ canh cánh, chẳng buông bỏ được. Ví Phật
với mẹ, nhưng chẳng phải là chỉ
thương nhớ một đời.
Chánh kinh:
Tử
nhược ức mẫu, như mẫu ức tử, mẫu
tử lịch sanh, bất tương vi viễn.
(Nếu
con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con đời
đời chẳng trái xa nhau)
Ở đây ví dụ cả mẹ lẫn
con cùng nhớ chẳng xa ĺa, tự nhiên cảm ứng
đạo giao, ắt có thể thấy Phật văng sanh. Chúng
ta phải thể hội sâu xa: V́ sao niệm Phật nhất
định được văng sanh? V́ sao mười
phương Như Lai riêng khen ngợi đức Di Đà?
Cao
Tề là vương triều do Cao Hoan thành lập vào thời
đại Nam Bắc Triều trong lịch sử, quốc
hiệu là Tề. Đương thời, có vị Đại
Hạnh ḥa thượng nói: “Tin - nhớ hai chữ chẳng
ĺa nơi tâm, xưng - kính hai chữ chẳng ĺa nơi miệng”.
Chẳng cần nghĩ ǵ khác, ngay cả với Đại
Thừa Phật pháp cũng chẳng tưởng đến.
Đại Thừa dạy chúng ta vượt thoát luân hồi,
nhưng quư vị có vượt thoát được
chưa? Muốn vượt thoát luân hồi phải đoạn
phiền năo, chưa đoạn phiền năo th́ tất cả
trí huệ đều là gọi là tà trí huệ, chỉ
tăng trưởng tà tri, tà kiến. Thanh Lương đại
sư nói: “Có hiểu nhưng không hành, tăng trưởng
tà kiến”. Phật nói thất t́nh, ngũ dục chẳng
đoạn, quả báo của quư vị vẫn là Dục Giới,
chẳng thể đạt tới Sắc Giới. Đoạn
ngũ dục mới có thể lên tới trời Sơ Thiền.
Nếu người ta nói quư vị một câu nghe chẳng
thuận tai, trong tâm quư vị vẫn c̣n chút phần chẳng
cao hứng, quư vị chẳng thể lên được trời
Sơ Thiền.
Trong
truyện kư về ngài An Thế Cao có đoạn kể: Có
lần ngài xuống Cửu Giang thuộc Giang
Các
vị nghĩ coi: Khất thực chẳng vừa ư, mới
khởi lên một niệm nóng giận, c̣n mắc phải
báo đó, chúng ta phải nên kiêng dè. Tu hành là khử sạch
tham, sân, si. Tu tâm thanh tịnh, tu tâm b́nh đẳng, tu tâm từ
bi, tu tâm hoan hỷ, mới có thể sửa đổi
được tập khí bệnh căn của chính ḿnh. Tất
cả hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng tốt,
nhưng thực tại, chúng ta chẳng có biện pháp ǵ
để đoạn phiền năo. Một câu Phật hiệu
có thể đè nén tham, sân, si, ngũ dục, lục trần,
chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm.
Một ư niệm vừa khởi, trong ư niệm thứ hai
bèn niệm Phật hiệu. Niệm niệm liên tục, niệm
Phật đắc lực hay không là do đây.
Vạn
phần chẳng để Phật hiệu vẫn niệm,
nhưng phiền năo vẫn khởi tác dụng. Luôn luôn nỗ
lực, luôn luôn buông xuống. Hiểu lư mới có thể
buông xuống, mới có thể khuất phục được
phiền năo. Phải thường luôn bồi đắp,
điều thứ nhất là phải đọc kinh, trong
kinh đức Phật dạy chúng ta chân tướng của
nhân sanh, vũ trụ, thế gian, xuất thế gian. Đọc
kinh nhằm mục đích thấy rỗng toang, buông xuống,
sau đấy dùng một câu Phật hiệu để giúp
chúng ta vượt thoát tam giới.
Ḥa
Thượng Đại Hạnh nêu lên bốn chữ “tin,
nhớ, xưng, kính”, xem Văng Sanh Truyện, ta thấy những
người niệm Phật văng sanh trong các đời nói
chung đều đă thực hiện được bốn
chữ ấy. Lại kiểm điểm ḿnh, nếu ḿnh
làm chưa được, chỉ đành đợi đến
những đời sau, nhưng đời sau có được
thân người, có gặp được Phật pháp hay
không đều là những nan đề cả! Bởi thế,
nhất định phải nắm lấy cơ hội
này, trọn chẳng để vuột mất.
Chánh
kinh:
Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm
Phật, hiện tiền đương lai, tất định
kiến Phật.
(Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm
Phật, [sẽ trong] hiện tại hay trong tương
lai, nhất định thấy Phật)
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Một câu
chuyên niệm”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Nhất
tâm hệ niệm”. Kinh A Di Đà (bản dịch của
ngài La Thập) chép: “Nhất tâm bất loạn”.
Văn tự ba kinh tuy đây kia sai khác, nhưng ư nghĩa
tương đồng. Kinh điển dạy chúng ta phải
chú trọng cương lănh tu hành, nếu muốn đạt
được lợi ích công đức thù thắng, nhất
định phải hiểu phương pháp tu học th́ mới
ḥng măn nguyện.
Chú
tâm xem kỹ kinh điển, ta thấy trọng điểm
chính là nhất tâm, chẳng những nhất tâm khi niệm
Phật, ngay cả trong sanh hoạt thường ngày
cũng phải nhất tâm. Niệm Phật chẳng qua chỉ
là phương cách để huấn luyện nhất tâm
đó thôi, chỉ có mỗi một niệm này, không c̣n niệm
nào khác. Niệm niệm nối tiếp nhau, thành tựu
tam-muội, trong hết thảy thời, hết thảy
nơi, trong cảnh thuận hay cảnh nghịch đều
giữ được nhất tâm. Công phu niệm Phật
thành phiến, liền có sức để hàng phục phiền
năo, đó gọi là Sự Nhất Tâm. Cổ đại
đức tán thán pháp môn này đều tán thán nơi một
điểm sau: nhờ vào chút công phu bèn có thể siêu xuất
tam giới.
“Sẽ trong hiện tiền hay trong
tương lai, nhất định thấy Phật”. Thấy
Phật là trong mộng thấy hoặc là trong định
thấy. Định là tâm chẳng tán loạn. Kinh Hoa Nghiêm có
đoạn chép khi Thiện Tài tham phỏng trưởng giả
Uất Hương, vị đại đức ấy
thích ra chợ để tu định tại đó. Lại
như trong các bức bích họa ở Đôn Hoàng, Phật
giảng kinh, thuyết pháp, trên trời có thiên nữ vừa
ca vừa múa. Tu học ở mức độ cao chẳng
giống với kẻ sơ học. Kẻ sơ học nhất
định phải t́m cách xa ĺa xă hội nhiễu
nhương, đấy là điểm khác biệt giữa
Đại Thừa và Tiểu Thừa. Trong hiện tại,
tu học nếu thành tựu th́ so ra sẽ cao hơn cổ
nhân nhiều lắm. Nếu tu chẳng thành tựu, lui sụt
cũng lẹ.
Kế
đó, trong mộng thấy Phật cũng là tướng
lành tốt phi thường, nhưng ngẫu nhiên gặp th́
được, nếu thường thấy chỉ sợ
là cảnh ma. Học pháp môn Tịnh Độ có Phật, Bồ
Tát gia bị, ma chẳng dám đến dụ hoặc. Kinh
Lăng Nghiêm dạy rất tường tận. Người
niệm Phật lúc lâm chung, ắt được Phật A
Di Đà đến đón; nếu thấy bất cứ vị
Phật hay Bồ Tát nào khác đến đón đều chẳng
muốn theo, chỉ đợi A Di Đà Phật, các cảnh
giới tốt đẹp khác bất tất phải quan
tâm đến. Huệ Viễn đại sư, sơ tổ
Tịnh Tông, lúc lâm chung nói: Một đời Ngài thấy Phật
A Di Đà ba lần, c̣n thấy Tây Phương Cực Lạc
thế giới nữa, hoàn toàn giống như kinh nói.
Nhất tâm nhất ư chuyên niệm Tịnh
Độ ngũ kinh, niệm đủ cả năm bộ
cũng được, chọn lấy bất cứ bộ
nào để niệm cũng được. Người
niệm Phật th́ nhiều nhưng văng sanh th́ ít, nguyên nhân
là do miệng niệm nhưng tâm không niệm. Trong tâm thanh tịnh,
b́nh đẳng, đại từ, đại bi, mới xứng
là tâm niệm Phật, bởi lẽ tâm giống như tâm
Phật. Tâm và nguyện đều giống với Phật
th́ Chân Như bổn tánh hiện tiền, niệm Phật
là nhân, thành Phật là quả. Giống như Thiền Tông “minh
tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”; chúng ta dùng một
câu A Di Đà Phật cũng có thể đạt được.
Vị Phật ấy là “phần chứng Phật”, chẳng
phải là viên măn Báo Thân Phật, chỉ là sơ trụ phần
chứng Phật, vẫn c̣n có bốn mươi hai giai
đoạn mới viên măn.
Có những kẻ cả đời niệm
Phật nhưng chẳng thể văng sanh, nguyên nhân nói đại
lược gồm 4 điều:
1. Một là v́ niệm Phật chẳng tinh
thành, niệm thứ nhất vừa mới tinh thuần, niệm
thứ hai bèn xen tạp.
Lịch
đại tổ sư đại đức đều là
bậc thông Tông, thông Giáo, sau khi hiểu rơ Tịnh Độ
bèn buông bỏ hết những thứ khác, chuyên tu Tịnh
Độ. Trong những trước tác của đại
sư Liên Tŕ, tinh hoa là bộ Di Đà Sớ Sao; trước
tác tối trọng yếu của đại sư Ngẫu
Ích là Di Đà Yếu Giải, Ấn Quang đại sư
vào tuổi già chỉ dùng một bộ kinh A Di Đà, một
câu Phật hiệu, ngoài ra chẳng c̣n có ǵ khác nữa.
2. Hai là v́ sanh nghi, chẳng dốc ḷng tin.
Tuy
tu Tịnh Độ, cũng chịu niệm Phật,
nhưng chẳng thể hoàn toàn tin ḿnh có thể văng sanh. Chỉ
cần có một điểm nghi t́nh, lúc lâm chung dù có phước
báo, thân không bệnh khổ, trí năo sáng suốt, nhưng chỉ
có thể sanh về biên địa. Kẻ phước báo
kém hơn, thần trí chẳng sáng suốt, nghi chướng
nổi lên, liền chẳng được văng sanh. Nếu
muốn phá trừ những nghi chướng ấy, hăy nên
thâm nhập, nghiên cứu kinh giáo và t́m đọc những
chuyện văng sanh thật sự.
3. Thứ ba là do chẳng có nguyện văng
sanh.
Chẳng
nguyện văng sanh là mâu thuẫn với niệm Phật, dùng
việc niệm Phật để tu phước,
tương lai làm một con quỷ giàu có, có kẻ c̣n mong
sanh lên trời, hy vọng tương lai hưởng
phước trời, cầu phước báo trong cơi trời,
cơi người.
4. Điều thứ tư là v́ chẳng thể
đoạn tham ái.
Tham
cầu các thứ hưởng thọ trong tam giới lục
đạo, phàm phu tham ngũ dục lục trần thế
gian, người cơi trời tham phước báo thanh tịnh
cơi trời, người Sắc Giới, Vô Sắc Giới
tham hưởng thọ Thiền Định. Có tham ắt
thành chướng ngại, chẳng thể văng sanh.
Người tu Tịnh Độ chân chánh, ma
chẳng dám đến nhiễu loạn. Thứ nhất là
do niệm lực, tức là như kinh này nói: “Nhớ Phật,
niệm Phật”. Thứ hai là bổn nguyện có Phật
tánh lực, điều được niệm là tự
tánh Phật, thanh tịnh b́nh đẳng đại từ
bi là Phật. Thứ ba là được bổn nguyện của
chư Phật gia tŕ. Với sức bổn nguyện oai thần
gia tŕ của mười phương ba đời hết
thảy Như Lai, ma dù có sức cũng chẳng thể
đến nhiễu loạn.
Tập khí mang theo từ nhiều đời
nhiều kiếp; nếu thường khởi ác niệm,
thường gặp ác mộng, đấy đều là do
ác nghiệp quá khứ, phải nỗ lực tu pháp môn sám hối.
Chắc thật niệm Phật là chân sám hối. Niệm
tướng hảo của Phật để đối trị
hôn trầm, niệm công đức của Phật để
đối trị vọng tưởng. Cảnh thuận
nghịch trong một đời chẳng nhất định,
hăy nhớ kinh Kim Cang dạy: “Hết thảy pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Vinh hoa phú quư thế
gian là vướng bận, có ai thỉnh ḿnh làm Đại
Phạm Thiên Vương ḿnh cũng chẳng làm. Bệnh khổ
cũng là một duyên gây thoái thất, đừng nghĩ tới
nó, hăy nghĩ tới tướng hảo trang nghiêm của
đức Phật.
Trong
Quán Kinh Trực Chỉ, ngài Từ Vân đại sư đời
Thanh nói: “Người thế gian nghiệp chướng
sâu nặng, lúc hết thảy kinh chú sám pháp đều chẳng
thể tiêu trừ được th́ rốt cuộc một
câu Phật hiệu có thể tiêu sạch, phương pháp hữu
hiệu nhất là niệm Phật”.
Chánh kinh:
Khứ Phật bất viễn, bất giả
phương tiện, tự đắc tâm khai.
(Cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ
đến phương tiện, tâm được tự
khai)
Sự Niệm, niệm đến một
công phu nhất định, sẽ nhập vào Lư Niệm, có
thể thấy được Pháp Thân và Báo Thân Phật. Công
phu chẳng đạt tới mức, chỉ thấy
được Ứng Hóa Thân Phật. Trong sớ luận,
tổ sư đại đức nói niệm Phật niệm
đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, là nói về
thượng phẩm Sự Nhất Tâm, đă đoạn
Kiến Tư phiền năo, thấy được Ứng
Hóa Thân Phật. Nếu niệm đến Lư Nhất Tâm Bất
Loạn, thấy được Báo Thân Phật, Pháp Thân Phật.
Cái gọi là “kiến tánh thành Phật” chính là thấy
được đức Phật nơi tự tánh, Phật
tâm b́nh đẳng thanh tịnh, tự tánh thật và Phật
là một.
Phật tâm b́nh đẳng, quyết chẳng
có phân biệt, chấp trước, nguyện đồng
Phật nguyện. Hết thảy các kinh Phật nói đều
do trong tự tánh tự nhiên lưu lộ ra. Nếu ai nhập
được cảnh giới này, mở xem kinh Phật,
thấy những điều Phật giảng hoàn toàn giống
với kiến giải của chính ḿnh, bởi lẽ tự
tha b́nh đẳng.
Một câu Phật hiệu chính là
phương tiện thù thắng, lạ lùng, chẳng cần
nhờ vào phương tiện, pháp môn khác nào để hỗ
trợ. Niệm Phật chính là niệm tâm, tâm và Phật
không khác, tự - tha bất nhị, bởi thế chẳng
cần có ông Phật nào khác ở ngoài tâm để làm
phương tiện. Nếu tự và tha là hai pháp th́ chẳng
phải là Phật pháp, Lục Tổ bảo như thế.
Những điều được nói trong Đàn Kinh toàn
là nguyên lư, nguyên tắc, bất cứ Phật pháp Đại
Thừa nào cũng chẳng thể trái nghịch những
nguyên lư, nguyên tắc được nói trong kinh ấy.
Chánh kinh:
Như nhiễm hương nhân, thân hữu
hương khí. Thử tắc danh vi Hương Quang Trang
Nghiêm.
(Như người nhiễm hương,
thân có mùi thơm. Đó gọi là Hương Quang Trang Nghiêm)
Phần trên, Đại Thế Chí Bồ Tát
đă tŕnh bày toàn bộ phương pháp tu học và hiệu
quả tu học của chính ḿnh rồi; giờ đây, Ngài
đem danh xưng của pháp môn này bảo với chúng ta.
Hai câu đầu là tỷ dụ. Hai câu sau nêu danh xưng của
pháp môn này: Hương Quang Trang Nghiêm. Thân gần gũi thân
Phật (Giới), tâm khai Phật tâm (Định - Huệ).
Lời lẽ, hành vi của Phật đều từ tâm
thanh tịnh phát khởi, trọn chẳng lầm lỗi,
đáng là giới luật cho thế gian.
Luận trên mặt chân tâm, tâm Phật và tâm
chúng không hai, không khác. Phật giác ngộ hoàn toàn; tướng
của Giác là Định, tướng của Mê là động.
Tâm bất động gọi là Định, tác dụng của
nó là trí huệ chân thật. Trí huệ thông minh của phàm
phu là dùng tưởng tượng, dùng tư duy, dùng suy
tưởng, nên gọi là thế trí biện thông. Tâm định
như gương, tịnh như nước lặng, thấy
được chân tướng sự thật, cũng có thể
thấy được quá khứ, vị lai. Tam thế,
mười phương là “bất tương ưng hành
pháp”, nói theo cách bây giờ là khái niệm trừu tượng,
chẳng phải thực sự tồn tại.
Cương
lănh giáo dục của đức Phật trong bốn
mươi chín năm trên đời là: Có Định, có Huệ,
tâm liền khai mở Phật tâm! Nếu ngôn ngữ, hành vi
chúng ta tương ứng với giới luật th́ gọi
là thân gần thân Phật, như người nhiễm
hương. Hết thảy pháp của Đức Phật
nói do v́ sự, do v́ người, do v́ địa bất
đồng nên [nhiều] vô lượng vô biên, nếu nắm
được tư tưởng trung tâm (tức điều
cốt lơi) của chúng th́ hết thảy ngôn hạnh sẽ
tương ứng với Phật pháp.
Đại
Tạng Kinh có mấy ngàn quyển, không cách ǵ đọc tụng
khắp hết được, thông thường chúng ta chỉ
có thể học tập chưa đến năm
mươi bộ. Con người hiện tại rất bận
bịu, chẳng thể có đủ thời gian để
nghiên cứu kinh lớn, luận lớn. Kinh Vô Lượng
Thọ số chữ không nhiều, nhưng bao quát hết
thảy nguyên tắc, lư luận, nếu có thể đọc
thuần thục bộ kinh này, thâm nhập lư giải kinh
đó th́ tốt lắm.
Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Đề tâm
hương trừ được các nhiệt năo: tham, sân,
si v.v… Bồ Đề là giác. Tâm Bồ Đề đối
trị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, có thể làm cho
chúng sanh đầy đủ trí huệ, thanh lương,
không nhiệt năo. Bồ Đề tâm thể và dụng rộng
lớn, chứa đựng cả thái hư. Hiện tại
chúng ta chỉ mê thích cái nhỏ nhoi, chỉ nghĩ đến
bản thân, nhà cửa của ḿnh, bởi thế phải
lưu chuyển trong lục đạo, chẳng thể xuất
ly. Lục đạo sanh từ mê, nếu chẳng mê th́
đại thiên thế giới cũng chẳng có. Là phàm hay
thánh chỉ trong khoảng mê hay ngộ, Tứ Thánh là giác, lục
đạo là mê. Chân chánh giác ngộ liền có thể vượt
thoát lục đạo.
Ḥa
Thượng Hư Vân một năm tắm một lần,
cạo tóc một lần. Nghe nói thân ngài có mùi thơm, y phục
cũng có mùi thơm. Chúng ta ba ngày chẳng tắm giặt,
bốc mùi khó chịu đựng nổi. Chúng ta vào chùa nếu
thấy có treo tấm biển Hương Quang Thất, ta biết
nơi đó là đạo tràng niệm Phật.
Chánh kinh:
Ngă bổn nhân địa, dĩ niệm Phật
tâm, nhập Vô Sanh Nhẫn.
(Nhân địa của con, dùng tâm niệm Phật,
nhập Vô Sanh Nhẫn)
Pháp
môn Niệm Phật chẳng giống với bất cứ
pháp môn nào khác. Mọi pháp môn đều là tu nhân chứng quả,
nhân quả chẳng đồng thời. Pháp môn Niệm Phật
là nhân quả đồng thời, gọi là “triệt quả
hạch nhân”. Phật hiệu đây chẳng phải chỉ
là đức hiệu của riêng A Di Đà Phật khi Ngài
chứng quả, mà c̣n là đức hiệu chứng đắc
nơi quả vị của mười phương chư
Phật Như Lai. Chúng ta lấy quả làm nhân, nên chẳng
giống với bất cứ pháp môn nào khác.
Niệm
Phật trọng tại niệm tâm, nhưng chẳng thể
phế khẩu niệm. Tâm và miệng phải tương ứng
nhau, phải như một, miệng đọc suông là vô ích,
nhất định phải miệng niệm tâm ứng, chẳng
thể dùng cái tâm ư thức phân biệt để niệm,
mà phải nhiếp trọn sáu căn nhất tâm bất loạn
mà niệm. Hai mươi lăm vị Bồ Tát trong kinh
Lăng Nghiêm đều là Pháp Thân đại sĩ, các Ngài
chẳng có vọng tâm, chân tâm đă hiển lộ. Dù chúng
ta chưa đạt tới cảnh giới của các Ngài,
nhưng muốn học theo th́ trọng yếu nhất là chắc
thật niệm Phật.
Phương
pháp [niệm Phật] rất nhiều, trong quá khứ, tại
chùa Linh Nham ở Tô Châu có một tấm bia đá khắc một
bài kệ, dạy người đời phương pháp
niệm Phật, chẳng cần phải đếm số,
chỉ quán tưởng màu sắc, mùi thơm, ánh sáng của
hoa sen. Căn cứ vào kinh Di Đà nói trong ao bảy báu có
hoa sen: màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh
sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng. Niệm A Di
Đà Phật câu thứ nhất tưởng hoa sen màu xanh
ánh sáng xanh, niệm sang câu thứ hai tưởng hoa sen vàng
ánh sáng vàng, câu thứ ba tưởng hoa sen đỏ ánh sáng
đỏ, câu thứ tư tưởng hoa sen màu trắng
ánh sáng trắng. Theo thứ tự đó, hết một ṿng
lại trở về đầu, luân lưu quán tưởng,
dùng phương pháp này để nhiếp trọn sáu
căn, chẳng cần phải đếm số. Ấn
Quang đại sư nói cách niệm này phù hợp ư kinh.
“Ngộ” là ngộ nhập, chia thành giải ngộ
và chứng ngộ. Đoạn nghi sanh tín, gọi là giải
ngộ, nhưng phiền năo tập khí chưa đoạn,
vẫn c̣n chướng ngại trí huệ thanh tịnh,
chướng ngại văng sanh thành Phật, cần phải
chân chánh khế nhập cảnh giới Phật. Kinh
Lăng Nghiêm giảng về chân tướng của vũ
trụ nhân sanh, phương pháp và tŕnh tự tu hành tường
tận hơn các kinh khác. Kinh Hoa Nghiêm nói tu hành có năm
mươi hai địa vị, nhưng kinh Lăng Nghiêm
nói đến sáu mươi địa vị, tỉ mỉ
hơn kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh Hoa Nghiêm, trước địa
vị Thập Tín có ba địa vị tiệm thứ (tiến
dần dần). Ba địa vị
tiệm thứ ấy chính là cơ sở tu hành, như các lớp
dự bị đại học.
Thứ
nhất là tu tập, mục đích trước hết là
trừ các trợ duyên của tập khí phiền năo. Chẳng
hạn như người tu hành phải đoạn ngũ
tân (năm thứ hôi nồng).
Ngũ tân là hành, tỏi, kiệu, hẹ, hưng cừ (9),
đều là những thứ trợ duyên bất hảo,
nên gọi là các thứ rau hôi. Ăn sống can hỏa dễ
động, ăn chín làm cho hormone tăng thêm, có thể gây
nên những xung động t́nh dục.
Thứ
hai là chân tu, chân tu là dùng cái tâm chân thật để tu.
Trước hết, nhất quyết phải tŕ giới,
giữ bốn giới trọng “giết, trộm, dâm, dối”,
nặng nhất là tội đại vọng ngữ:
chưa chứng bảo là đă chứng. Như Vĩnh Minh
đại sư là A Di Đà Phật tái lai, một khi thân
phận bị lộ Ngài bèn viên tịch. Bố Đại
ḥa thượng xuất hiện dưới thời Nam Tống,
là Di Lặc Bồ Tát tái lai, chính Ngài tự nói ra, nói xong bèn
viên tịch. Kẻ nào nói xong chẳng viên tịch th́ đích
thực là giả mạo.
Thứ
ba là tăng tấn, dùng sức định huệ đoạn
trừ nguồn ác, không ngừng cầu tiến lên, xa ĺa tập
khí phiền năo của chính ḿnh, sau đấy mới nhập
địa vị Thập Tín. Dù có viên măn địa vị
Thập Tín, vẫn chỉ thuộc về Giải vị (địa
vị mới giải ngộ, chưa thật chứng), trọn chưa kiến tánh, chưa tự
thấy hiểu chân tướng của vũ trụ, nhân
sanh. Từ Sơ Trụ trở lên, phá một phần vô
minh, thấy một phần bổn tánh, mới tính là thật
chứng.
Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác gọi là chứng
nhập, cho đến địa vị bốn mươi
mốt của hàng Pháp Thân đại sĩ. Tiểu thánh
đă chứng Nhân Không, nhưng chưa chứng nhập
Pháp Không, chẳng qua là giải ngộ, phá được
Ngă Chấp, nhưng chưa thể trừ được
Pháp Chấp.
Tiêu
chuẩn nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn trong kinh Nhân Vương khá
cao: phải đạt đến Thất, Bát, Cửu Địa
mới được tính là chứng nhập, dùng tịnh
niệm chân chánh để trừ diệt tà kiến, vọng
tưởng, và các thứ nhiễm ô tư tưởng, kiến
giải nơi tâm lư, tinh thần. Trước kia thấy thế
giới là đời ác năm trược, bây giờ, tâm
thanh tịnh rồi, thấy thế giới là thanh tịnh,
tâm thanh tịnh thế giới cũng thanh tịnh, hết
thảy pháp sanh từ tâm tưởng. Tâm là mấu chốt,
nội pháp ngoại pháp đều không, hết thảy vô
sanh, đó là cảnh giới của bậc từ Thất
Địa trở lên. Không thể không biết cương
lănh tu học như thế, trong lúc niệm Phật, bất
cứ chuyện ǵ chẳng được nghĩ đến.
Có kẻ
nói càng niệm Phật vọng tưởng càng nhiều, đó
chỉ là lúc b́nh thường chẳng hay biết đấy
thôi, nào phải b́nh thường chẳng có vọng tưởng.
Lúc niệm Phật, y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây
Phương đều có thể dùng để tưởng
được cả, chẳng riêng ǵ hoa sen, nhưng chỉ
nên tưởng một thứ, bởi mục đích là
để dẹp tạp niệm.
Kinh
Hoa Nghiêm giảng Vô Sanh Pháp Nhẫn là chẳng thấy có
chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy chút pháp nào diệt.
Đó là nói đến hiện tượng của Vô Sanh
Pháp Nhẫn. Khi nào quư vị thấy cùng tột hư không
khắp pháp giới chẳng có chút pháp nào sanh, cũng chẳng
thấy có chút pháp nào diệt, quư vị đă chứng đắc
cảnh giới Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô sanh vô diệt mới
là chân tướng, có sanh có diệt là sự hiểu lầm
của chúng ta; nhưng nếu ta chưa tự chứng cảnh
giới này, rất khó hiểu được nổi.
Nói
chung, tâm ta và tâm Phật, tâm Bồ Tát chẳng khác ǵ,
nhưng tâm Phật, tâm Bồ Tát bất động, tâm bất
động là chân tâm, những điều được
thấy đều là tướng chân thật. Tâm chúng ta là
tâm sanh diệt, tâm hư vọng, nên toàn thấy những
tướng hư vọng, đến khi nào chúng ta tu định
đạt đến tŕnh độ tương đương,
tự ḿnh chứng đắc rồi th́ mới có thể
hiểu rơ lư luận này. Kinh Đại Thừa nói: “Phật
chẳng độ chúng sanh”. Ngài chỉ giảng rơ chân
tướng chính Ngài đă tự chứng, chúng ta có tự
chứng được hay không là do công phu của chính ḿnh.
Không
sanh, không đến, ĺa dục, không nguyện đều là
“không”, đây là nói theo mặt Lư. Không diệt, không tận,
không đi là “chẳng không”, đây là luận trên mặt Sự.
Ly cấu, vô biệt, vô xứ, tịch tĩnh, vô trụ,
không nhưng chẳng không chính là Trung Đạo. Sự là
có, nhưng thể của nó là không. Sự từ đâu có?
Phật nói vạn pháp do nhân duyên sanh. Bất cứ một
pháp nào sanh khởi đều có vô lượng nhân duyên. Cái
ǵ sanh bởi nhân duyên ắt không có tự thể, tức là
không! Đừng hiểu Không là không có ǵ. Không là Có, chỉ
v́ sáu căn của chúng ta chẳng tiếp xúc được
nên tạm gọi là Không, chứ chúng thật sự là Có. Nếu
hiểu rơ được sự thực, liền có thể
sử dụng Trung Đạo, chẳng nghiêng lệch về
Không Lư hay chấp vào Giả Tướng.
Nho
gia nói đến đạo Trung Dung, nhưng chưa thấu
triệt Phật pháp. Châu Hy là người đời Tống,
cũng từng học Phật, bỏ không ít công phu học
Phật, bộ Tứ Thư do ông ta biên soạn nhất
định chịu ảnh hưởng cách chỉ dạy
trong kinh Hoa Nghiêm, nhưng tôi chưa dám khẳng định,
bởi lẽ kết cấu Tứ Thư rất giống
với kinh Hoa Nghiêm. Điểm đặc sắc lớn
nhất của kinh Hoa Nghiêm là có lư luận, có phương
pháp, lại c̣n có cả biểu diễn nữa. Năm
mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng
tử là biểu diễn, ứng dụng lư luận vào sanh
hoạt thường nhật.
Kết
cấu của Tứ Thư cũng giống như vậy,
Trung Dung là lư luận, Đại Học là phương pháp,
Luận Ngữ và Mạnh Tử là biểu diễn, thuyết
minh thánh hiền vận dụng cái đạo Trung Dung trong
sanh hoạt thường nhật như thế nào. Khổng
Tử đăi người tiếp vật cả một
đời đều tuân thủ cái đạo Trung Dung. Thời
xưa, đế vương đều lấy lẽ trung
ḥa để trị thiên hạ. Ba ngôi đền lớn
trong hoàng cung Bắc Kinh có tên là Thái Ḥa điện, Trung Ḥa
điện và Bảo Ḥa điện.
Chánh
kinh:
Kim
ư thử giới, nhiếp niệm Phật nhân, quy ư
Tịnh Độ.
(Nay
trong cơi này, nhiếp người niệm Phật quay về
Tịnh Độ)
Ba câu này nêu rơ nhiệm vụ của Bồ
Tát khi vào trong thế giới này: Chỉ dạy chúng sanh y
giáo phụng hành, ai nấy đều có cơ hội giác ngộ
chân tướng của nhân sanh vũ trụ, viên thành Phật
đạo. Việc giáo hóa chúng sanh này cũng có thể gọi
là gia nghiệp của Như Lai. Thế giới này là thế
giới ngũ trược ác khổ, kinh Vô Lượng Thọ
mô tả là “ngũ thống, ngũ thiêu” (năm điều
đau đớn, năm điều thiêu đốt). Sống
trong thời đại này, mức độ ác trược
càng sâu càng mạnh, chẳng luận trong nước hay
ngoài nước, tánh t́nh con người tham, sân, si mạn
tăng trưởng không ngừng. Ở những nơi tôi
đi đến và có dịp quan sát, lại càng thấy
đáng sợ vô cùng. Ác trược đă đạt đến
mức độ tương ứng th́ hậu quả là khó
tránh tai nạn phát sanh, con người hiện tại phải
nên cảnh tỉnh.
Chữ “Tịnh Độ” chỉ Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chẳng thuộc
vào địa cầu này, chẳng thuộc trong Thái
Dương Hệ, cũng chẳng thuộc trong Ngân Hà Hệ.
Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cho rằng Ngân Hà Hệ bất
quá chỉ là một đơn vị thế giới mà thôi.
Khu vực giáo hóa của một đức Phật gồm
một trăm ức Ngân Hà Hệ. Bài văn này của cụ
được in trong phần phụ lục cuốn chú giải
kinh Vô Lượng Thọ. Ở phương Tây bên ngoài
đại thiên thế giới của chúng ta, cách xa mười
vạn ức cơi Phật, có một thế giới Cực
Lạc rộng lớn, là khu vực giáo hóa của đức
Phật A Di Đà, khoảng cách giữa thế giới Cực
Lạc và địa cầu của chúng ta là một con số
thiên văn (ư nói rất lớn) làm sao có thể đến
được nổi? Quư vị đọc kinh Đại
Thừa liền biết: Muốn đến được
Cực Lạc chẳng phải là chuyện khó. Bởi lẽ,
cùng tận hư không khắp pháp giới đều là vật
do tâm tánh ta biến hiện, chẳng cần biết khoảng
cách xa hay gần, đều chẳng thể vượt khỏi
phạm vi của tâm ta. Đă thuộc trong tâm th́ trong một
niệm bèn có thể đến đó được.
Tốc
độ của niệm lực cùng khắp, không có vật
chất ǵ có thể so sánh được. Trong mỗi giây,
ánh sáng có thể đạt đến tốc độ ba
mươi vạn dặm, nhưng niệm lực nơi
tâm trong khoảng sát na, chưa đến một giây, đă
có thể trọn khắp vô tận hư không pháp giới. Phật
dạy cho chúng ta biết bản năng này của nhân loại;
Phật chỉ dạy chúng ta cách khôi phục bản
năng của chính ḿnh. Nếu nói đức Phật có thể
ban cho chúng bất cứ vật ǵ, nói như vậy là lừa
người, bởi thế mới nói trong Phật pháp không
có mảy may mê tín nào cả!
Trong hư không, địa cầu vô cùng nhỏ
bé, các tôn giáo khác tin kính Nước Trời, trời phải
đâu chỉ có một, đức Phật nói có hai
mươi tám cơi trời, mỗi tầng trời đều
có hoàn cảnh sanh hoạt riêng, kinh Phật mô tả cực
tường tận. Không gian hoạt động thật sự
của chúng ta có phạm vi cực rộng, mỗi một
tinh cầu trong hư không đều liên quan đến ta. Có
vị đồng học bảo tôi, các nhà khoa học Tây
Phương dùng phương pháp khoa học, truy t́m quá khứ
của một người, chứng minh con người thực
sự có chuyển thế, có người đời trước
là người ở địa phương nào đó, có
người từ trong đường súc sanh mà đến,
lại c̣n có người từ tinh cầu khác sanh về
đây. Không gian lớn vô hạn, lẽ tự nhiên là
người trên địa cầu có thể từ tinh cầu
khác sanh vào đây.
Nói trên mặt Sự, cơi này là quán trọ, Tịnh
Độ là quê nhà. Quán trọ và quê nhà phải dùng thời
gian mà luận, người sống trong thế giới này
mang tánh cách tạm thời, sau khi đến Tây
Phương, thọ mạng vô hạn, thời gian dài lâu mới
là quê nhà. Mê th́ đánh mất phương hướng, giác
ngộ rồi không ai là chẳng hồi đầu, thảy
đều muốn trở về Tây Phương cả.
Đại
Thế Chí dùng sức bổn nguyện oai thần gia tŕ
người niệm Phật, nhưng người niệm
Phật vẫn cứ phiền năo, vẫn có thoái chuyển,
vẫn có tâm tham luyến. Đây chẳng phải là nguyện
lực của Bồ Tát có vấn đề, mà là do nghiệp
chướng tập khí của chính ḿnh quá nặng. Phật,
Bồ Tát không có ư niệm cưỡng bách một cá nhân nào
phải làm như thế này, như thế nọ. Nếu
các Ngài có ư niệm như thế, tâm các Ngài chẳng thanh tịnh.
Phật, Bồ Tát là thầy, chúng ta phải thành khẩn tiếp
nhận lời dạy răn của các Ngài, làm theo.
Chương
kinh văn này chỉ có hai trăm bốn mươi bốn
chữ, nhưng nếu hiểu rơ ư nghĩa, y theo
phương pháp lư luận kinh dạy để tu học
th́ chính là được Đại Thế Chí Bồ Tát gia
tŕ. Y theo đây tu học ắt chẳng bị thoái chuyển,
công phu tự nhiên đắc lực, lâm chung các Ngài ắt
đến tiếp dẫn.
Có năm pháp môn thấy được đức
Phật trong năm cơi, cổ đức có nói như vậy,
riêng nêu tại đây để mọi người cùng tham
khảo, nhưng bất tất phải học theo, chỉ
để sau này có ai nhắc đến, chúng ta khỏi bỡ
ngỡ, việc tu hành của chính ḿnh đương nhiên
phải lấy lời Phật làm chuẩn mực. Năm
pháp môn đó là:
- Nhớ tưởng ngoại cảnh niệm
Phật.
- Nhiếp cảnh quy tâm niệm Phật.
- Tâm cảnh dung thông niệm Phật.
- Tâm cảnh cùng mất niệm Phật.
- Viên dung vô tận niệm Phật.
Đầy
đủ ba tư lương Tín - Nguyện - Hạnh, ba diệu
huệ Văn - Tư - Tu, mới gọi là người niệm
Phật. Nếu chỉ là miệng niệm Phật suông,
trong tâm suy nghĩ lung tung, Đại Thế Chí chẳng biết
làm cách nào! Tu Tịnh Độ phải có đủ điều
kiện Tịnh Độ, tức là ba tư lương.
Thật sự tin có Phật A Di Đà, ḷng tin hoàn toàn thành khẩn;
nguyện học theo A Di Đà Phật, thật sự nguyện
sanh về Tây Phương Tịnh Độ; Hạnh là niệm
một câu thánh hiệu A Di Đà Phật này. Trong sanh hoạt
thường ngày tuân theo mỗi điều Phật dạy
răn thành nề nếp. Đó là Chánh Trợ Song Tu.
Lại
c̣n phải có ba diệu huệ Văn - Tư - Tu. Văn ngụ
ư tiếp xúc, tai nghe âm, mắt thấy sắc, lấy một
chữ Văn làm tiêu biểu cho tất cả nên gọi là
Văn. Tư ngụ ư hiểu rơ, chứ không phải là suy
xét, suy xét là thuộc về thức thứ sáu. Một phen
tiếp xúc bèn hiểu rơ, hiểu rơ xong, tu hành quyết
định chẳng mê. Văn - Tư - Tu đồng thời.
Đấy là cách tu hành của Bồ Tát, khi văng sanh, quá nửa
sẽ sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm độ, thuộc về
Lư Nhất Tâm Bất Loạn. Ngẫu Ích đại sư
nói: “Niệm Phật dù hữu niệm th́ rốt cuộc
cũng nhất định đạt đến vô niệm;
từ Sự niệm rốt cuộc cũng nhất định
đạt đến Lư Niệm”.
Tịnh
Tông Học Hội đ̣i hỏi người niệm Phật
phải có đủ năm đức, ba phước, lục
ḥa, tam học, lục độ, thập nguyện, một
bề chuyên niệm cầu sanh Tịnh Độ. Lấy
Phật làm cảnh, tâm nguyện giải hạnh, mỗi mỗi
đều giống như Phật mới là người niệm
Phật chân chánh. Đấy là những điều chúng tôi
đề xướng bao năm qua. Trong thế giới ác
trược này, khởi tâm động niệm, xử thế
đăi người, tiếp vật như thế nào, sao cho
cơi ḷng chúng ta vẫn thanh tịnh vô nhiễm, thành tựu
trí huệ công đức th́ những điều kiện vừa
nói ở phần trên rất trọng yếu.
Thứ
nhất là năm đức, đó là căn bản lớn
lao để làm người. Đó chính là thái độ xử
thế đăi người cả một đời của
vị Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử.
Mọi đệ tử cửa Khổng đều công nhận
thầy ḿnh có năm đức, tức là Ôn, Lương,
Cung, Kiệm, Nhượng (ôn ḥa, hiền lương, cung
kính, tiết kiệm, khiêm nhượng), lấy tư
tưởng Nho Gia làm cơ sở ḥng kiến lập vô
thượng Đại Thừa Phật pháp, rồi mới
học những thứ khác.
Ba phước: học Phật chẳng thể
không có phước báo, Phật là đấng Lưỡng
Túc Tôn, phước lẫn huệ đầy đủ. Túc
có nghĩa là viên măn. Tam phước xuất phát từ Quán
Kinh, tổng cộng gồm ba điều kiện, tất
cả hết thảy Đại Thừa Phật pháp đều
chẳng thể không có ba thứ phước này.
1) Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
từ tâm bất sát, tu thập thiệp nghiệp
Phật
pháp truyền đến Trung Quốc, v́ sao được
tiếp nhận rộng khắp trong triều ngoài nội,
được phát dương quang đại không ngừng
là phải có lư do: Cơ sở của Phật pháp là hiếu
với cha mẹ, tôn trọng thầy, Nho gia cũng thế.
Nhiều điều Nho Gia đề xướng chỉ là
nguyên tắc khá giản lược, kinh điển Phật
giáo phong phú có thể bổ sung những điểm thiếu
sót của Nho Gia. Đế vương các đời chẳng
cần biết hành vi như thế nào, đều phải
lấy Hiếu để trị thiên hạ.
Trên
thế giới, trong bốn nước có nền văn
minh lớn lao từ thời cổ, ba nước đă diệt
vong, chỉ c̣n ḿnh Trung Quốc tồn tại hơn năm
ngàn năm, nguyên nhân là do quan niệm hiếu thuận cha mẹ,
tôn phụng sư trưởng vậy. Cơ sở để
duy tŕ nguồn mạch đạo lư này là kiến lập từ
đường. Thời cổ cúng giỗ là nhằm mục
đích suốt cả đời kính nhớ nguồn gốc,
hiệu quả là vun bồi dân đức sâu xa. Tổ tiên
cách xa hơn ngàn năm c̣n chẳng quên, lẽ nào bất hiếu
với cha mẹ hiện tại. [Văn minh Trung Hoa] hơn
năm ngàn năm chưa bị đào thải là do dùng hiếu
đạo để duy tŕ. Chẳng có cha mẹ, chẳng
hy vọng ǵ con cái tốt lành; chẳng có thầy dạy chẳng
hy vọng học tṛ giỏi giang. Con cái, học tṛ tiếp
nhận lời chỉ dạy, nỗ lực tiến lên, kế
sách công tác giáo dục trăm năm bèn thành tựu. Bởi
thế, gia đ́nh ḥa thuận, xă hội yên ổn, quốc
gia giàu mạnh, thế giới đại đồng,
đều tạo dựng từ hiếu đạo.
Xem
trong lịch sử, nếu tuân thủ lời dạy của
Khổng Phu Tử để trị quốc, chỉ tuân
hành được hai ba phần, quốc gia đă đại
trị; những lúc trái nghịch lời dạy của Khổng
Tử, quốc gia ắt bị loạn lạc. Lại c̣n
mở rộng hiếu kính ra hơn nữa, mở rộng
cái tâm hiếu thuận cha mẹ thành cái tâm hiếu thuận
đối với hết thảy chúng sanh, mở rộng
cái tâm kính trọng sư trưởng thành tâm kính trọng hết
thảy chúng sanh, đó gọi là đại hiếu. Tâm
lượng rộng mở, có hiếu kính th́ mới có thể
sanh tâm đại từ bi.
2)
Thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng
phạm oai nghi
Tam
Quy là quy y Tam Bảo. Ba đại cương lănh của Phật
giáo là: Giác chẳng mê; chánh không tà, tịnh chẳng nhiễm.
Về phương pháp tu học, chúng ta chọn pháp môn Niệm
Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối. Giới luật là khuôn phép sanh hoạt, là lễ tiết
oai nghi.
3)
Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng
Đại Thừa, khuyến khích sách tấn người
tu học
Tam
phước là luận trên phương diện tu học của
chính ḿnh. Lục Ḥa là luận trên phương diện
đoàn thể, là nguyên tắc đối xử giữa mọi
người với nhau.
Thứ
nhất là Kiến Ḥa Đồng Giải: ư kiến
tương đồng, giảm thiểu tranh chấp, tức
là như thường nói là hiểu biết lẫn nhau.
Trước kia, đến già, đến chết không qua lại
với nhau cũng chẳng thấy quan hệ ǵ lắm. Cận
đại, khoa học kỹ thuật đột nhiên phát
triển mạnh mẽ, tin tức giao thông thuận tiện,
nhanh chóng, làm thế nào để hiểu biết lẫn
nhau ngơ hầu giữ cho nhân loại đối xử ḥa
b́nh với nhau thật là trọng yếu. Sử gia kiêm triết
học gia Anh Quốc là Thang Ân Tỉ đă nói trong hội
nghị Nhật Nội Ngơa như sau: “Muốn xây dựng
sự hiểu biết lẫn nhau một cách ḥa b́nh trên thế
giới hiện tại và mai sau, th́ rốt cục phải
dùng đến học thuyết Khổng Mạnh và Đại
Thừa Phật pháp”.
Chủ
giáo (10) Vu Bân Khu Cơ của Trung Quốc tham gia hội nghị
ấy, sau khi về nước bèn đề xướng
thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng tổ tiên trong
Thiên Chúa Giáo do đấy được bắt đầu.
Bởi lẽ tư tưởng Khổng Mạnh ôn ḥa nên
hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính sư trưởng
không ai phản đối, bất cứ tư tưởng
trong nước, ngoài nước nào đều có thể
xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau. Bởi thế,
sau đại hội tôn giáo chung, giáo hội Công Giáo thông tri
những người có trách nhiệm ở các nơi chủ
động đối thoại với Phật giáo ḥng hấp
thụ những kinh nghiệm của Phật giáo.
Khéo
sao, tôi gặp dịp Chủ Giáo Vu Bân dự trù thành lập
Sở Nghiên Cứu Đời Sống Tinh Thần Á Đông
cho thần học viện Đa Mă Tư ở Phụ Đại
Hậu Biên, những nghiên cứu viên của sở là những
linh mục, nữ tu, tối thiểu phải tốt nghiệp
đại học hoặc tốt nghiệp môn Thần Học,
phục vụ ba năm; ông ta mời tôi đến dạy.
Bọn họ chủ yếu là muốn nghiên cứu Phật
giáo, học viên không đông, nhưng người dự
thính lên đến tám, chín chục người. Thứ hai
là giới ḥa đồng tu (cùng ḥa kính ǵn giữ giới luật),
thứ ba là thân ḥa đồng trụ (ḥa kính cùng ở chung
với nhau), thứ tư là khẩu ḥa vô tránh (lời lẽ
ḥa kính, không tranh căi), thứ năm là ư ḥa đồng duyệt
(ư kiến ḥa đồng, cùng vui vẻ chia xẻ quan điểm),
thứ sáu là lợi ḥa đồng quân (vui vẻ chia xẻ
quyền lợi với nhau).
Tam
Học là Giới - Định - Huệ, cho đến Lục
Độ, Thập Nguyện, học đến mười
nguyện Phổ Hiền chính là đăng phong tạo cực,
tâm lượng rộng lớn, nguyện hạnh cũng rộng
lớn vô biên. Chẳng hạn như nguyện thứ nhất
là “lễ kính chư Phật”, hết thảy chúng sanh
đều là Phật, chúng sanh đều có Phật tánh,
đă có Phật tánh th́ sớm muộn ǵ cũng đều
có thể thành Phật. Vô t́nh chúng sanh cũng là Phật, thực
vật hay khoáng vật đều có Phật tánh. Kinh Hoa
Nghiêm chép: “T́nh và vô t́nh, cùng viên măn chủng trí”. Đối
với hết thảy mọi người, hết thảy
sự vụ đều phải tận tâm, tận lực,
tận trách nhiệm.
Các
bạn đồng học khi học Phật nhất định
phải vận dụng Phật pháp vào sanh hoạt thường
nhật. Ví như cái bàn là vật, phải lau chùi cho thật
sạch, phải sắp cho ngay ngắn chỉnh tề, tức
là ḿnh cung kính nó. Với bất cứ sự việc nào chịu
trách nhiệm đều nghiêm cẩn thực hiện,
đó chính là lễ kính. Một bề chuyên niệm cầu
sanh Tịnh Độ. Nương vào Phật làm cảnh,
tâm nguyện, hạnh giải, mỗi mỗi đều giống
như Phật mới là người thật sự niệm
Phật. Tâm mong mỏi hiểu rơ các pháp, mọi hành vi tạo
tác trong cuộc sống thường ngày luôn lấy Phật
làm chuẩn, hành theo đúng như kinh Vô Lượng Thọ
đă dạy đó là người thật sự niệm Phật.
Kinh
Hoa Nghiêm, trong cuốn thứ năm, đức Phật hỏi
các đệ tử lúc ban sơ phát tâm, đối với
mười tám cảnh giới ai viên thông cảnh giới
nào, từ phương tiện nào mà nhập tam-ma-địa,
bảo các đồ đệ trả lời. Có tất cả
hai mươi lăm vị Bồ Tát đáp lời, đem
vô lượng vô biên pháp môn quy nạp thành hai mươi
lăm loại lớn, mỗi một loại có một
người làm đại biểu. Đại Thế Chí Bồ
Tát đại biểu pháp môn Niệm Phật, Ngài thưa
cùng đức Phật:
Chánh
kinh:
Phật
vấn viên thông, ngă vô tuyển trạch, đô nhiếp lục
căn, tịnh niệm tương kế, đắc
tam-ma-địa, tư vi đệ nhất.
(Phật
hỏi viên thông, con không chọn lựa. Nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc
tam-ma-địa, ấy là bậc nhất)
Hai
mươi lăm môn Viên Thông, môn nào cũng là bậc nhất.
Pháp môn trọn chẳng cao thấp, ví như người bệnh,
mỗi người căn bệnh khác nhau, tự nhiên uống
thuốc khác nhau, thuốc nào trị được chứng
ấy th́ là bậc nhất. Bất luận pháp môn nào, đối
với sự tu học của chính ḿnh vô cùng thích hợp,
khế cơ, pháp môn ấy là bậc nhất. Viên Thông
nghĩa là viên dung, Thông là thông đạt vô ngại, viên măn
thông đạt tức là đại triệt đại ngộ,
chẳng luận là đă học hay chưa học đều
có thể hiểu rơ, biết được quá khứ, vị
lai, lại c̣n biết được cảnh giới của
người khác. Bởi lẽ, tâm ḿnh và tâm người
khác chỉ là một, đạt đến mức độ
ấy bèn gọi là đắc thần thông.
Thần
thông có sáu thứ, một trong sáu thứ đó là Tha Tâm Thông,
bởi lẽ tâm đă là một. Hiện tại, chúng ta chẳng
biết tâm cảnh của người khác là v́ có chướng
ngại; ví như nước có sóng gợn, chẳng soi tỏ
h́nh ảnh bên ngoài. Nếu cơi ḷng b́nh tịnh, bản
năng sẽ tự khôi phục, chứ chẳng phải
là do tu hay học mà có, nếu bổn tánh quư vị chẳng
có, có muốn làm thế cũng không được.
V́
sao ngài Đại Thế Chí nói “không chọn lựa?”
Là v́ Ngài ngoài chẳng chọn tướng sáu căn, trong chẳng
chọn tánh của sáu căn. Tướng lục căn và
tánh lục căn bao trùm tất cả hết thảy pháp
môn, Ngài trọn không tuyển chọn, chỉ là “nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Mắt
chẳng hướng ngoại vin nắm, cho đến ư chẳng
vin theo pháp, chỉ nương vào một cái tâm tinh thuần,
trong sáng, chẳng dùng đến lực dụng của sáu
căn. Phần đầu là xả ĺa tướng, chúng ta
c̣n có thể làm được, phần sau là bỏ nơi
tánh, chúng ta khó thể làm nổi.
“Một
niệm chẳng sanh” là Tịnh,
niệm mà vô niệm vậy. Muốn cầu tịnh niệm
thành tựu th́ “nhiếp trọn sáu căn” sẽ
được viên măn. Hai câu này hỗ trợ sau, thành lập
nhau, có thể coi là nhân quả của nhau. Chỉ có một
câu A Di Đà Phật, niệm lâu ngày đến nỗi câu A
Di Đà Phật ấy cũng chẳng chấp trước,
niệm không ngừng, chẳng c̣n hữu niệm lẫn vô
niệm. Hữu niệm lẫn vô niệm đều không
c̣n th́ gọi là “vô niệm”, hữu niệm lẫn vô niệm
đều chẳng chấp trước. Phàm phu chấp Hữu,
Nhị Thừa chấp Không, Bồ Tát chẳng chấp
trước cả hai, nên gọi là Trung Đạo. “Nhất
tâm hệ Phật” (một ḷng khăng khắng nơi Phật)
gọi là “niệm”, thường thường nghĩ đến
lời dạy dỗ, phương pháp, lư luận, cảnh
giới của Phật, giữ măi trong tâm, chẳng nghĩ
đến điều ǵ khác, gọi là “nhất tâm hệ
Phật”.
Tiếng
Phạn Tam Ma Địa, Hán dịch là Đẳng Tŕ. Phàm
phu có nhân ngă, thị phi, cao thấp. Ly khai hết thảy
phân biệt, chấp trước chính là b́nh đẳng, tâm
ta b́nh đẳng chính là giống với chư Phật, Bồ
Tát b́nh đẳng, dùng tâm thanh tịnh b́nh đẳng có thể
soi rơ vạn pháp, đấy chính là trí huệ chân thật. Tâm
b́nh đẳng c̣n gọi là thiền định, cũng giống
như kinh Vô Lượng Thọ bảo là “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Nói trên mặt Sự th́ gọi là Niệm
Phật Tam Muội, nói trên mặt Lư th́ gọi là Tự Tánh
Phật.
Ngẫu
Ích đại sư nói: “Pháp môn niệm Phật, trọn
chẳng có ǵ là lạ lùng, đặc biệt cả, chỉ
có tin tưởng sâu xa, tận lực hành tŕ là cốt yếu
mà thôi”. Phật dạy: “Nhược nhân đản niệm
Di Đà Phật, thị danh vô thượng thâm diệu thiền”
(Nếu ai chỉ niệm đức Phật A Di
Đà, đó gọi môn thiền định sâu xa, mầu
nhiệm vô thượng). Câu này lấy
từ kinh Đại Tập. Niệm Phật với tham
thiền, xét về thành tựu chẳng hai, chẳng khác. Ngài
Thiên Thai nói: “Bốn thứ tam-muội cùng có tên là Niệm
Phật, nhưng Niệm Phật Tam Muội là vua trong các
tam-muội”, [những câu nói như thế] đều là
khen ngợi niệm Phật.
Liên
Tŕ đại sư nói: “Một câu Di Đà bao trùm tám giáo,
thâu trọn năm tông, cốt sao tin tới nơi, giữ
cho ổn, thẳng thừng mà niệm, thề chẳng biến
đổi, sẽ quyết định được văng
sanh. Một khi được văng sanh, vĩnh viễn chẳng
thoái chuyển, các thứ pháp môn đều được
hiện tiền”. Đại sư Liên Tŕ sống trong
khoảng niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, thoạt
đầu học Giáo, sau đó tham Thiền, căn cơ Nho
Gia lẫn Đạo Gia đều thâm hậu, tuổi già
chuyên tâm niệm Phật, là tổ sư thứ tám của Tịnh
tông. Liên Tŕ đại sư nói: “Có thể thật sự
niệm Phật, buông thân tâm, thế giới xuống, chính
là đại bố thí. Chẳng khởi tham, sân, si nữa
chính là đại tŕ giới. Chẳng kể thị phi nhân
ngă, chính là đại nhẫn nhục. Chẳng gián đoạn,
chẳng xen tạp chính là đại tinh tấn. Chẳng c̣n
vọng tưởng rong ruổi chính là đại thiền
định. Chẳng bị những ngă rẽ khác làm lầm
lạc chính là đại trí huệ”.
Luận
đến Bố Thí th́ Bố Thí rất trọng yếu
đối với việc tu hành. Tôi nghĩ nhân duyên học
Phật của chính ḿnh thật là tốt đẹp, toàn gặp
gỡ những bậc giỏi giang. Tôi học Phật
năm hai mươi sáu tuổi, trước tiên theo học
với thầy Phương Đông Mỹ, khi đă tiếp
xúc với kinh điển bèn bái phỏng Chương Gia
đại sư để thỉnh giáo. Lần gặp Ngài
đầu tiên, tôi chẳng biết lễ mạo ra sao, vừa
chạm mặt bèn hỏi ngay: “Đại Thừa Phật
pháp rất hay, có phương pháp nào hay ho để tôi mau
chóng tấn nhập chăng?” Ngài nh́n tôi, không nói một
câu. Ngài nh́n tôi, tôi cũng nh́n trả. Nh́n tôi độ chừng
nửa tiếng, Ngài buông một chữ: “Có”. Nói xong,
không nói thêm ǵ nữa.
Ước
chừng năm phút sau, Ngài lại nói: “Thấy rỗng
toang, buông xuống”. Toàn thể thân h́nh, thái độ của
Ngài đang ở trong Định. Tôi lại hỏi: “Bắt
đầu từ đâu để thực hiện?” Lại
đợi thật lâu sau, Ngài mới buông hai chữ “bố
thí”. Ngày đầu tiên gặp mặt, bấy nhiêu thời
gian chỉ nói có mấy câu. Sau cùng từ biệt, Ngài
đưa ra tận cửa, Ngài nói: “Hôm nay tôi nói cho ông sáu
chữ, hy vọng ông thực hiện trong sáu năm cho tốt”.
Về sau, thật sự tôi làm theo đúng lời Ngài nói.
Trong Lục Độ của Bồ Tát, Bố Thí đứng
đầu. Ǵ cũng buông xuống hết, Bồ Tát từ
sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, chỉ có mỗi
việc “Bố Thí” mà thôi.
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm
Phật Viên Thông Chương lược giảng hết
(Bửu Quang tự
đệ tử Như Ḥa dịch xong ngày 07 tháng 08 năm
2004)
(1) Lục phàm: chỉ sáu cơi phàm trong mười
pháp giới, tức là địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, a-tu-la, người, trời.
(2) Tứ thánh: bốn bậc thánh: Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. Hiểu theo nghĩa hẹp
là bốn quả vị Thanh Văn: Tu Đà Hoàn, Tư
Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
(3) Ở đây Ḥa Thượng mượn
thuật ngữ “truy tầm long mạch” của thuật
Địa Lư Phong Thủy để diễn tả ư: nắm
chắc, truy t́m tận gốc, biết rành rẽ mọi hiện
tượng, thấy được bản thể, hiểu
thấu mọi hiện tượng lưu xuất từ bản
thể.
(4) Tứ Gia Hạnh: tức là Noăn pháp, Đảnh
pháp, Nhẫn pháp, Thế Đệ Nhất pháp (theo từ
điển Phật học của Đoàn Trung C̣n).
(5) Thất t́nh: bảy thứ t́nh cảm của
con người: Hỷ (mừng), nộ (giận), ai
(đau buồn), cụ (sợ), ái (yêu thích), ố (ghét), dục
(muốn). Cũng có sách giảng là hỷ, nộ, ưu (lo
lắng), tư (nghĩ ngợi), bi (thương xót), khủng
(sợ sệt), kinh (hoảng hốt, sợ hăi).
(6) Tam Không: Ngă không (c̣n gọi là Nhân Không), Pháp
Không, và Câu Không (ngă và pháp đều không). Duy Thức học
c̣n lập ra ba thứ không khác, đó là: vô tánh không, dị
tánh không và tự tánh không. Luận Hiển Dương Thánh
Giáo lại đề xướng ba thứ không khác: vô thể
không, viễn ly không và trừ khiển không. Thông thường,
khi nói đến tam không, ta thường hiểu theo cách
định nghĩa đầu tiên.
(7) Tam luân không tịch (c̣n gọi là tam luân thể
không), tức là “thí không” (người thí thấy thân ḿnh vốn
là không, đă biết là vô ngă nên không có tâm mong cầu phước
báo), “thọ không” (không thấy có người nhận của
bố thí, nên không khởi tâm kiêu mạn), và “thí vật
không” (thể nhận bản chất các pháp là không, nên vật
được dùng để bố thí cũng là không, không
khởi tâm tham). Bố thí tam luân không tịch chính là nội
dung của Bố Thí Ba-la-mật.
(8) Tướng Phần: thuật ngữ Duy
Thức học chỉ ảnh tượng do các sự vật
hữu vi và vô vi từ thế giới bên ngoài ảnh hiện
vào tâm.
(9) Hưng cừ: Có người cho hưng cừ
chính là củ nén bên ta, củ nhỏ có mùi hăng như tỏi,
nhưng có sách lại bảo hưng cừ không phải là
nén. Ngài Tịnh Không lại ghi chú là hành tây.
(10) Chức vụ Hồng Y Giáo Chủ
(cardinal) bên Công Giáo, Tàu gọi là Chủ Giáo.